Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Hát Kinh Chúa Thánh Thầnhttps://www.youtube.com/watch?v=Xpv4wEyoeSs
I.
Hát THÀNH TÂM THỜ KÍNH (Mời cộng đoàn quỳ)
II.
Dẫn nhập
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể! Niềm khao khát của chúng con là được kết hợp mật thiết
với Chúa. Niềm hy vọng lớn nhất của cuộc đời chúng con là được chia sẻ niềm vui
phục sinh với Chúa. Chúa đã sống lại để trở nên nguồn sống mới cho chúng con.
Nếu Chúa không sống lại thì niềm tin của chúng con cũng trở nên trống rỗng, hy
vọng của chúng con trở thành hảo huyền, Quả thực, Chúa đã sống lại, cũng như các tông đồ. Ngài mời gọi
chúng con hãy đến Ga-li-lê để gặp Chúa.
Giờ
này, trước Thánh Thể Chúa là điểm hẹn Ga-li-lê tuyệt vời nhất và sống động
nhất. Vì nơi Bí Tích Thánh Thể, Chúa biểu lộ tình yêu Chúa cách rạng ngời và
gần gũi hơn hết. Đây cũng là lời hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến
tận thế”.
Niềm
vui lớn nhất của chúng con - người sống đời dâng hiến là niềm vui được gặp Chúa
và có Chúa ở cùng. Niềm vui ấy Chúa muốn "chúng con là nhân chứng".
Cũng vậy, một trong những mong đợi của Đức Thánh Cha Phanxico trong năm đời sống thánh hiến đó là: "Hãy
ra khỏi chính mình và đi về những vùng ngoại ô của cuộc sống...cả một nhân loại
đang chờ đợi: những người đã mất hết hy vọng, những gia đình đang gặp khó khăn,
những trẻ thơ bị bỏ rơi, các bạn trẻ gặp ngõ cụt trước tương lai, những người
già lão bệnh tật bị loại trừ, những người giàu của cải nhưng trống rỗng trong
lòng, những người đang tìm ý nghĩa cuộc đời, khao khát đời sống tâm linh."
Đó là những điểm dừng trên hành trình đến Galile mà Chúa muốn chúng con mạnh mẽ và khiêm tốn dừng lại trao ban Tin Mừng Phục Sinh nhằm xoa dịu bao nỗi khổ đau của con người hôm nay.
Lạy
Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa mời gọi chúng con đến Galile để gặp Chúa, không phải
với bộ mặt âu
sầu ủ dột, nhưng với gương mặt chan chứa niềm vui vượt thắng đau khổ
và được
thanh luyện trong Mầu Nhiệm Vượt Qua, niềm vui của con tim bừng cháy được chia sẻ niềm
vui của Đấng
Phục Sinh.
-
Trong đời sống sứ mạng, chúng con còn gặp bao nhiêu thách đố và khó
khăn: từ môi trường xã hội duy vật, tục hóa và hưởng thụ; tự do tôn giáo bị vi
phạm; hoàn cảnh xã hội nhiều bất công kỳ thị đổi thay; tình trạng xã hội dị
biệt nhau về nhiều mặt… tất cả như những cơn bão tố đang từng giờ, từng ngày ập
vào con thuyền cuộc đời chúng con…“nếu không có Chúa chúng con không thể làm gì
được”. Hồng ân của năm đời sống thánh hiến đúng là một trong những điểm hẹn
Ga-li-lê lý tưởng nhất để đưa chúng con trở về NGUỒN chính là khởi điểm nhằm
giúp chúng xuất phát lại từ Đức Kito là Đấng trở nên nguồn sức mạnh để chúng
con có can đảm từ bỏ những gì không đẹp ý Chúa, sẵn sàng thay đổi bản thân,
trung thành với những quyết tâm và chọn lực đích thực vì Nưới Trời.
Giờ
đây chúng con đến với Chúa, để ở lại với Chúa và nhận lấy ân huệ lương thực nơi
BTTT, chúng con tin rằng, Chúa ở lại nơi Bí Tích Thánh Thể chỉ vì yêu chúng con
và muốn sống trong chúng con, Chúa đang mời gọi chúng con đến kết hợp với Chúa
và cùng với Chúa sống trọn niềm vui: Niềm vui được yêu thương, niềm vui được
chọn gọi.
Xin
cho chúng con quảng đại, nhạy bén dưới tác động của Thần Khí Tình Yêu và biết
quan tâm đến những nhu cầu của thế giới, nhờ đó Năm Đời Sống thánh hiến mới
biến thành kairòs đích thực và trở nên một điểm hẹn dồi dào ân lộc của Thiên
Chúa, một thời điểm làm biến đổi từng tâm hồn chúng con.
(Mời
cộng đoàn đứng)
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh GIOAN
21,1-19
Sau đó, Đức Giê-su lại tỏ mình ra cho
các môn đệ ở Biển Hồ Ti-bê-ri-a. Người tỏ mình ra như thế này.2 Ông Si-môn
Phê-rô, ông Tô-ma gọi là Đi-đy-mô, ông Na-tha-na-en người Ca-na miền Ga-li-lê,
các người con ông Dê-bê-đê và hai môn đệ khác nữa, tất cả đang ở với nhau.3 Ông
Si-môn Phê-rô nói với các ông: "Tôi đi đánh cá đây." Các ông đáp:
"Chúng tôi cùng đi với anh." Rồi mọi người ra đi, lên thuyền, nhưng
đêm ấy họ không bắt được gì cả.
4
Khi trời đã sáng, Đức Giê-su đứng trên bãi biển, nhưng các môn đệ không nhận ra
đó chính là Đức Giê-su.5 Người nói với các ông: "Này các chú, không có gì
ăn ư? " Các ông trả lời: "Thưa không."6 Người bảo các ông:
"Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá." Các
ông thả lưới xuống, nhưng không sao kéo lên nổi, vì lưới đầy những cá.7 Người
môn đệ được Đức Giê-su thương mến nói với ông Phê-rô: "Chúa đó! " Vừa
nghe nói "Chúa đó! ", ông Si-môn Phê-rô vội khoác áo vào vì đang ở
trần, rồi nhảy xuống biển.8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào bờ kéo theo lưới
đầy cá, vì các ông không xa bờ lắm, chỉ cách vào khoảng gần một trăm thước.
9
Bước lên bờ, các ông nhìn thấy có sẵn than hồng với cá đặt ở trên, và có cả
bánh nữa.10 Đức Giê-su bảo các ông: "Đem ít cá mới bắt được tới đây!
"11 Ông Si-môn Phê-rô lên thuyền, rồi kéo lưới vào bờ. Lưới đầy những cá
lớn, đếm được một trăm năm mươi ba con. Cá nhiều như vậy mà lưới không bị
rách.12 Đức Giê-su nói: "Anh em đến mà ăn! " Không ai trong các môn
đệ dám hỏi "Ông là ai? ", vì các ông biết rằng đó là Chúa.13 Đức
Giê-su đến, cầm lấy bánh trao cho các ông; rồi cá, Người cũng làm như vậy.14 Đó
là lần thứ ba Đức Giê-su tỏ mình ra cho các môn đệ, sau khi trỗi dậy từ cõi
chết.
15
Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô: "Này anh Si-môn,
con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? " Ông đáp:
"Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su nói với ông:
"Hãy chăm sóc chiên con của Thầy."16 Người lại hỏi: "Này anh
Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy
có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn dắt chiên của
Thầy."17 Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh
có yêu mến Thầy không? " Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần:
"Anh có yêu mến Thầy không? " Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ
mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc
chiên của Thầy.18 Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình
thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra
cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn."19 Người nói
vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi,
Người bảo ông: "Hãy theo Thầy." Đó là
lời Chúa.
SUY NIỆM: (xin mời cộng đoàn ngồi)
Suy
niệm 1: GA-LI-LÊ- ĐIỂM HẸN TIN MỪNG
Cái chết bi thương của thầy Giêsu vẫn ám ảnh các tông
đồ, họ sợ hãi vì bị liên lụy, ngôi nhà họ ở vẫn cửa đóng then cài, một tiếng
động nhẹ cũng có thể làm họ co rúm và thót tim, các ông chán chường, thất vọng,
tương lai mịt mờ, sợ những người Do thái sẽ đến giết mình như đã giết Thầy,
cuộc sống thật tối tăm và ảm đạm…Một trong số họ có ý định bỏ cuộc, về quê sinh
sống; số khác như buông xuôi mặc cho cuộc đời đưa đẩy, trở lại nghề cũ - đánh
cá…ba năm theo Thầy luống công, trở về con số không, xem như thất bại ê chề khi
chọn làm môn đệ của Thầy Giêsu.
Chúa Giêsu Phục
Sinh biết và hiểu rõ tâm trạng của từng môn đệ mà Ngài vẫn yêu thương họ đến
cùng, nên Chúa đã tạo cơ hội và chủ động hẹn gặp họ tại Ga-li-lê.
·
Ga-li-lê là nơi
các ông đã từng sinh sống, làm nghề chài lưới,
·
Ga-li-lê nơi hẹn
hò đầu đời của Thầy và trò
·
Ga-li-lê gợi nhớ
lại điểm xuất phát ban đầu.
·
Ga-li-lê điểm hẹn
sau Phục Sinh. Thầy Giêsu như muốn các ông sống lại các tương quan ban đầu cùng
với Thầy đó là: “Bẻ Bánh”, cùng Thầy ngược xuôi vì cái đói và “cuộc sống bơ vơ
của đám đông dân chúng”… Từ đó, giúp họ sống lại kinh nghiệm tình yêu thuở ban
đầu, hầu mở ra chân trời mới mà các ông là người ra đi cùng với Thánh Thần.
Chính nơi đây Chúa đã cho các ông một “mẻ cá lạ lùng”.
Như gợi lại lời hứa ban đầu. “Các anh sẽ trở thành lưới người như lưới cá”.
Ga-li-lê
khơi lại những kỷ niệm đẹp của thầy trò như địa điểm tạo nên tâm điểm của tương
quan cá vị của thầy trò bằng việc ở lại, lắng nghe và chia sẻ cuộc sống với
Thầy. Từ tương quan cá vị ấy mà các ông đã nhận ra Thầy đã Phục Sinh với bình
an Thầy ban cho, trong niềm hân hoan và không còn nghi ngờ nữa.
Sau
khi củng cố niềm tin cho các tông đồ và các ông đã xác tín Thầy đã Phục
Sinh.
Chúa
Giêsu bắt đầu trao sứ mạng cho các Tông đồ khởi đi từ Phê-rô. “Con có yêu mến
Thầy không? Điều thật đánh động là ba lần tuyên xưng tình yêu của Phê-rô được
Chúa đáp trả lại bằng ba mệnh lệnh: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy”
Điều này nói với chúng ta rằng mối tương quan tình yêu
của Chúa Giêsu với chúng ta nay trở thành sứ mạng: Ân ban và trách nhiệm yêu
thương chiên của Ngài. Vì thế, tình yêu nơi mỗi Kito hữu, đặc biệt nơi mỗi chúng
ta- những người sống đời dâng hiến bao gồm ba thành phần: Thiên Chúa, Bản thân
và tha nhân.
Vì
thế, mỗi người tu sĩ không ngừng được kêu gọi và yêu mến Chúa Kito cách riêng
biệt và sâu sắc. Cũng trong cùng một tình yêu đó chúng ta được mời gọi cách
triệt để cho sứ mạng. Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa sinh hoa trái
nơi sứ mạng. Đó là tình yêu ban sự sống không chỉ cho chúng ta, nhưng còn cho
tất cả những người xung quanh chúng ta
nữa.
Ga-li-lê,
nơi gặp gỡ của Chúa Giêsu Phục Sinh, các môn đệ, và của mỗi người chúng ta. Hôm
nay, Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta qui tụ biết bao tâm hồn tan vỡ, biết bao
tiếng than khóc nơi đàn chiên của Chúa Kitô: vô số nhũng người nghèo đói, yếu
đau, bị tổn thương, bị "lạc đường", bị bỏ rơi hay bị loại trừ. Chúng ta hãy là
Ga-li-lê của họ, để họ cũng cảm nhận rằng Chúa đang gặp gỡ họ từng ngày trong
đời sống. ( xin mời cộng đoàn đứng)
Lạy Chúa Giêsu yêu mến! Ga-li-lê là
nơi gặp gỡ của Chúa Giêsu và các tông đồ, và cũng là nơi các ông lãnh nhận sứ
mạng. Điều đó cũng nhắc nhở chúng con rằng: Chúng con cũng phải luôn trở về
Ga-li-lê của đời mình: trong đời sống cầu nguyện để được chìm sâu trong tình
yêu với Thiên Chúa. Khi đó tình yêu sẽ là nguồn gốc và động lực ban sức mạnh,
giúp chúng con hiến thân cho sứ mạng hoàn toàn và dứt khoát, với niềm vui mạnh mẽ
hơn.
Suy
niệm 2: SỐNG TINH THẦN PHÚC ÂM MIỀN GA-LI-LÊ
CỦA GIÁO HỘI (xin mời cộng
đoàn ngồi)
Ga-li-lê-a là điểm hẹn gặp gỡ thân tình của thầy trò Giêsu. Từ Ga-li-lê là hạt
giống Giáo hội nẩy mầm và sứ mạng loan báo Mầu Nhiệm Vượt Qua và Tin Mừng Phục
sinh cũng lớn lên từ đây. Vì thế, Giáo hội là chứng nhân cho Tình Yêu. Tu sĩ là
người được thừa kế Tình yêu đó qua sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Quả
thế, ơn gọi trước tiên của người tu sĩ là làm chứng cho tình yêu. Vì Thiên Chúa
là Tình yêu. Giáo hội là nhân chứng của Tình Yêu và phân phát tình yêu cho thế
giới hôm nay.
Hơn bao giờ hết, người tu sĩ mang trong mình
lời chứng hùng hồn cho thế giới hôm nay khi chúng ta sống tinh thần TIN MỪNG theo
lời khuyên Phúc Âm trong thế giới ngay tại cộng đoàn và môi trường chúng ta đang sống.
Chúng
ta có dám khẳng định lời khuyên Phúc Âm là MIỀN GA-LI-LE của Giáo hội hôm nay,
để từ miền đất ấy chúng ta bước vào thế giới với niềm xác tín mạnh mẽ. Ba lời khuyên
phúc Âm là nẻo đường tự do để yêu thương.
1.
Lời khuyên
Phúc Âm về vâng phục
Lời khuyên Phúc Âm về vâng phục được gợi hứng từ đời sống vâng phục của Đức Giêsu. Điều thú vị là Đức Giêsu nối kết tự do của Ngài với việc thi hành ý muốn của Cha. Với Đức Giêsu, tự do của Ngài là đạt tới viên mãn trong việc trao hiến chính mình cho “công việc của Cha”. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4, 34). ĐGS lấy làm vui thích để thi hành Thánh ý Cha: “Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào thì tôi làm như vậy…” (Ga 8, 28-29) Chúa Giêsu cố gắng làm vui lòng Chúa Cha vì Ngài yêu mến Chúa Cha.
Lời khuyên Phúc Âm về vâng phục được gợi hứng từ đời sống vâng phục của Đức Giêsu. Điều thú vị là Đức Giêsu nối kết tự do của Ngài với việc thi hành ý muốn của Cha. Với Đức Giêsu, tự do của Ngài là đạt tới viên mãn trong việc trao hiến chính mình cho “công việc của Cha”. Chính Chúa Giêsu đã khẳng định “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4, 34). ĐGS lấy làm vui thích để thi hành Thánh ý Cha: “Tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào thì tôi làm như vậy…” (Ga 8, 28-29) Chúa Giêsu cố gắng làm vui lòng Chúa Cha vì Ngài yêu mến Chúa Cha.
Vâng phục không thể không mang lại đau khổ. Vâng phục
của Đức Giêsu trên thập giá là biểu lộ tột đỉnh về tự do của Ngài để mến yêu
Cha và nhân loại. Sự tự do duy nhất của Ngài là để yêu thương!
Vậy đâu là vâng phục của người tu sĩ chúng ta? Trải
qua những biến cố trong cuộc sống, chúng ta cũng đã cảm nhận:
·
Vâng phục giải
thoát chúng ta khỏi sụ tự phụ của tính kiêu căng và sự ngạo mạn của chủ nghĩa
cá nhân.
·
Vâng phục liên
kết chúng ta với cộng đoàn và giúp chúng ta sẵn sàng để ý lưu tâm đến bất kỳ
trách nhiệm hay sự phân công nào của Hội dòng trao cho chúng ta.
·
Vâng phục còn đòi
hỏi chúng ta tinh thần “lên đường”, “ra chỗ nước sâu” đối diện với điều mới mẻ.
·
Vâng phục là
chúng ta sẵn sàng để bị làm xáo trộn hoặc không an cư vì những đòi hỏi của Đời
sống ơn gọi và sứ mạng.
·
Cuối cùng, vâng
phục đòi người tu sĩ chúng ta can đảm chết cho một cái gì đó, có giá trị trong
cuộc đời dâng hiến của mình. Điều này chúng ta phải trả giá và chấp nhận chịu
đớn đau. Không thể dễ dàng bỏ một dự định yêu thích, nghề nghiệp, chức vụ, nơi
chốn… điều khó nhất là chết đi cho an toàn của chính mình. Thậm chí điều này có
thể mang ý nghĩa là từ bỏ chính mạng sống mình. Đó chính là cách để học biết tự
do vì ơn gọi và sứ vụ, để cùng đi vào mầu nhiệm vượt qua của Đức Kito- Đấng mà
sự chết của Ngài đã mang lại cho nhân loại và chúng ta sự tự do để sống và để
yêu như con cái Thiên Chúa.
2.
Lời khuyên Âm
về đời sống Khiết Tịnh
Người tu sĩ chúng ta hôm nay bị thách đố để khôi phục
lại sự tốt lành và vẻ đẹp của tình yêu nhân loại. Khiết tịnh không phải là dồn
nén, nhưng là “sự kiện toàn" của tình yêu nhân loại. Để đời sống khiết tịnh trở
thành đáng tin cậy trong thời đại của chúng ta, như tông huấn đời sống thánh
hiến đưa ra: “đời sống thánh hiến giới thiệu cho thế giới ngày nay những mẫu
gương của đời sống khiết tịnh của nam nữ tu sĩ là những con người tỏ rõ, sự
quân bình, tự chủ, tinh thần dấn thân, tâm lý và tình cảm trưởng thành”. Qua đó
cho chúng ta một xác tín:
·
Khiết tịnh phải
được sống như một cách để yêu thương với đời sống nhân bản đích thực và tình
cảm trưởng thành.
·
Sống khiết tịnh
là hình thành nơi người tu sĩ tình yêu nhân loại nồng ấm và vui tươi khi đối
diện với nền văn hóa kỹ - trị và vụ lợi trong thời đại chúng ta.
·
Sống khiết tịnh
giải thoát chúng ta khỏi sự cằn cỗi và mang đến cho chúng ta tình yêu sáng tạo và
trọn vẹn. Vì nó giải thoát chúng ta khỏi cảnh ngột ngạt của cái tôi ích kỷ.
·
Sống khiết tịnh giải
thoát chúng ta khỏi sự hẹp hòi, chiếm đoạt… hướng về sự siêu thăng chính mình
để đi tới một mối lợi lớn hơn.
Sống khiết tịnh giúp chúng ta chiêm ngắm tình yêu của
Đức Giêsu như là mẫu mực của tình yêu giải thoát và đơm bông kết trái. Tình yêu
của Ngài là tình yêu trao ban vì lợi ích của người khác. “Tôi đến để cho chiên
được sống và sống dồi dào (Ga 10,10). Đó là tình yêu không loại trừ, một tình
yêu dành chỗ cho bất cứ ai đến với mình khiến chúng ta tôn trọng tha nhân và
yêu thương người khác ngay trong cái khác biệt của họ. Qua đời sống khiết tịnh,
chúng ta làm chứng cho một tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
3.
Lời khuyên Phúc
Âm về sống khó nghèo
Khó nghèo là sự thiếu thốn không ai muốn. Tự nó, nghèo
khổ không có giá trị gì cả, trong xã hội hôm nay, nghèo khó phải được khử
trừ.Vậy có hợp lý chăng khi mọi người trên thế giới tìm cách để thoát khỏi cái
nghèo, thì chúng ta- người tu sĩ lại khấn sống khó nghèo? Có nghĩa gì không, để
chọn trở thành người nghèo? Chắc chắn không ai chọn nghèo vì nó cả.
Chúng ta chọn sống nghèo vì yêu mến Chúa Kito nghèo
khó. “Đấng không có chỗ tựa đầu”. Và lời chúc phúc cho những ai sống nghèo khó vì
“Nước Trời là của họ”
Quả
vậy, Khó nghèo là chứng từ cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Vì nó tham
gia vào tình yêu tự hiến của Ngôi Hai Thiên Chúa và liên đới với người nghèo bị
áp bức, bênh vực người yếu kém, lắng nghe tiếng kêu than của người bị đối xử
bất công qua đời sống bác ái và kinh nguyện hiệp thông.
Khó nghèo là tình yêu tự quên mình và hạ mình,
là tình yêu không giữ lại bất cứ điều gì cho mình nhưng là trao hiến vì lợi ích
của người khác. Nhằm vun trồng các giá trị của sự siêu thoát, đơn sơ và tín
thác vào Chuá Quan Phòng.
·
Khó nghèo là chia
sẻ tình yêu, không tích lũy cá nhân, thể hiện tình tương thân tương ái. Tất cả
là vì cộng đoàn giải thoát hầu chúng ta khỏi sở hữu cá nhân, và giúp ta lớn lên trong
tinh thần hiệp thông liên đới với người nghèo, cho đi cách quảng đại mà không
mong chờ sự đáp trả.
v=3xRux2Ob8D4https://www.youtube.com/watch?
V. LỜI NGUYỆN CHUNG
Cộng đoàn thân mến,
Thiên Chúa là Tình yêu và hằng
yêu thương chúng ta bằng tình yêu muôn thuở. Vững tin vào tình yêu của Ngài,
chúng ta dâng lời nguyện xin:
1. “Hãy chăn dắt chiên của Thầy." Chúng ta
cầu nguyện cho các vị chủ chăn luôn biết chăm sóc đàn chiên Chúa trao phó và
yêu thương họ như lòng Chúa mong ước. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
2. "Này anh
Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? ”.Chúng ta
cầu nguyện cho mọi thành phần trong Hội Thánh, luôn sống yêu thương và đón nhận tất
cả mọi điều xảy ra trong cuộc sống để
kết hợp với mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kito và
làm chứng Tin Mừng Phục sinh cho mọi người. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
3. "Thưa Thầy,
Thầy biết con yêu mến Thầy."”. Chúng ta cầu nguyện cho mọi tu sĩ,
luôn trở về nơi Bí tích Thánh Thể- trung tâm của
đời sống, để kín múc sự sống và nguồn yêu thương, và hiệp thông với mọi
người trong đời sống bác ái và sẵn sàng dấn thân phục vụ. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
4.
"Hãy
theo Thầy." Chúng ta
cầu nguyện cho các bạn trẻ, biết lắng nghe tiếng Chúa gọi, dám sống yêu thương
phục vụ, và tích cực cộng tác xây dựng Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu xin Chúa.
VI. LỜI NGUYỆN KẾT
Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng con xin cảm tạ
Chúa vì Tình Yêu Quan Phòng, qua Đức Thánh cha Phanxico, vị cha chung của Giáo
Hội, Chúa đã cho chúng con một điểm dừng thật ý nghĩa, đó là sống năm Đời Sống Thánh Hiến. Điểm dừng này giúp chúng con sống lại lời mời gọi của Chúa
Kito phục sinh: “ Hãy đến Ga-li-lê và sẽ gặp Thầy ở đó.”
Xin
cho chúng con luôn biết trở về Ga-li-lê trung tâm điểm của đời mình là Bí tích Thánh Thể để kín múc nguồn sức sống và tình yêu của Chúa. Từ đó chúng con sẵn
sàng đến với mọi người trong tình yêu dấn thân và phục vụ vô vị lợi. Amen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét